ĐIỀU TRỊ BỆNH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN 0906143408

Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Ung thư: Vẫn có cách trời kêu mà không dạ

Nếu ý thức đúng, chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa và cầm chân ung thư bằng nhiều cách.

Tỉ lệ ung thư dạ dày tăng ở các quốc gia không có biện pháp đẩy lùi thuốc lá. Ai cũng rõ mối liên hệ giữa khói thuốc và ung bướu ác tính từ thực quản xuống đến trực tràng, trừ những người đang hút thuốc.

Nếu ý thức đúng, chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa và cầm chân ung thư bằng nhiều cách.

Mặc dù ngành y có thể hãnh diện với nhiều tiến bộ nhảy vọt trong thập niên vừa qua nhưng ung thư vẫn trước sau chẳng khác nào bản án tử hình theo kiểu vừa không cho kháng án lại thêm không hề báo trước ngày thi hành án. Thử hỏi mấy ai bình tĩnh cho nổi khi nhận chẩn đoán đang mắc bệnh ung thư? Thử hỏi có bao nhiêu người gom đủ nghị lực để nuôi niềm tin khỏi bệnh khi thầy thuốc điều trị bệnh nhân với ánh mắt còn nước còn tát?

Nhưng nếu tưởng bức tranh ung thư chỉ toàn màu xám thê lương hay thậm chí màu đen tăm tối thì lầm. Bệnh không hề “trời kêu ai nấy dạ”. Bệnh cũng không còn “chưa đánh đã thua”. Chuyên gia ở Brussel, sau khi đúc kết và so sánh dữ liệu thống kê ở 21 nước châu Âu trong suốt thế kỷ 20, đã mạnh dạn tô nhiều gam màu tươi sáng trên bức ảnh rọi lớn của tế bào ung thư. Tuy chưa rực rỡ huy hoàng như ánh bình minh của một ngày mới nhưng cũng rõ nét màu xanh của hy vọng. Hy vọng nhiều ít không quan trọng, có đằng nào cũng còn hơn không.

Bệnh nhân có thể chết vì ung thư phổi, ung thư ruột, ung thư gan, đột quỵ, suy tim, viêm phổi... Những bệnh này có liên quan ít hay nhiều với thói quen hút thuốc lá

Cai thuốc lá và tầm soát ung thư

Điều đáng vui đầu tiên là tỉ lệ ung thư phổi giảm thấy rõ, tất nhiên chỉ ở các quốc gia quyết liệt với biện pháp chống thuốc lá. Niềm vui tuy vậy không trọn vẹn vì tỉ lệ ung thư phổi ở phái nữ lại tăng cao, phần vì nhiều bà sinh tật hút thuốc, phần vì không có biện pháp bảo vệ số nạn nhân tuy không hút thuốc nhưng phải hít khói thuốc của chồng, của đồng nghiệp, của người vô trách nhiệm nhả khói nơi công cộng… Đó là chưa kể đến khói xăng dầu, khói chất thải công nghệ. Bệnh viện ung bướu vì thế nếu không quá tải mới lạ. Nhưng không thể xem thực trạng đó cứ như là chuyện đương nhiên, là chuyện bình thường.

Kế đến, số người mắc bệnh ung thư tiền liệt tuyến và cổ tử cung lại tăng hơn trước. Đừng hiểu lầm rồi ngã lòng. Chẳng qua nhờ biện pháp tầm soát nên thầy thuốc phát hiện nhiều người mắc bệnh. Nhưng ngược lại, cũng nhờ thế mà số người được điều trị cũng đạt hiệu quả cao hơn. Cộng sổ cuối cùng vẫn là thuận lợi, cho dù thầy thuốc đằng nào cũng ở thế ngư ông. Muốn được vậy phải tầm soát định kỳ, không có cách nào khác. Khổ nỗi là tầm soát ung thư nghe sao vẫn còn quá xa lạ ở nước mình. Ngay cả bệnh lây lan ác liệt như viêm gan, lao phổi, bệnh phong tình… còn chưa được tầm soát đúng mức thì nói chi đến ung thư.

Nếu ung thư đại tràng xưa nay không quấy rầy các bà thì trước sau vẫn đe dọa giới mày râu do nhiều ông vẫn né tránh biện pháp tầm soát định kỳ từ tuổi 50. Tất nhiên không dễ thuyết phục đàn ông, giới tự cho là phái mạnh, vì phần lớn sợ đau khi khám bệnh. Các ông ơi, tuy hơi đau một chút nhưng lại có thể an tâm bước vào hiệp hai của đường đời, thay vì trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ BỆNH khéo là ghét nhau.

Chú trọng vệ sinh an toàn thực phẩm

Tỉ lệ ung thư dạ dày ở châu Âu giảm thấy rõ từ khi thầy thuốc phát hiện, hiểu sâu hơn về vi khuẩn Helicobacter pylori và biết rõ tác hại của loại vi khuẩn này không chỉ khu trú trên đường tiêu hóa, gây viêm loét dạ dày.

Mặt khác, tỉ lệ ung thư dạ dày giảm đáng kể ở các nước bảo đảm tối đa an toàn vệ sinh thực phẩm. Khỏi nói dông dài cũng hiểu tế bào ung thư dạ dày đang sống khỏe re thế nào ở xứ mình khi vệ sinh an toàn thực phẩm chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Cứ đọc các bản tin về thịt thối, về hải sản ướp kháng sinh, về rau cải trồng bằng nội tiết tố… thì hiểu ngay tại sao xứ mình thừa… bệnh ung thư.

Bản báo cáo tổng kết từ Tổ chức Chống ung thư ở châu Âu (ECCO) quả thật có nhiều điều đáng để cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân suy nghĩ. Ung thư chắc chắn là bệnh có thể phòng ngừa. Ung thư rõ ràng là căn bệnh có thể điều trị, dù không đơn giản nhưng cũng không còn nan giải như nhiều thập niên trước đây.

Sau nhiều năm nghiên cứu, thầy thuốc khắp nơi đã đồng lòng là nhiều loại thực phẩm (gạo lức, cải bắp, tỏi…) và cây thuốc (nấm lim xanh, cây thông đỏ…) có công năng phòng, chống ung thư thông qua hai cơ chế tác dụng:

● Giải độc cho cơ thể để qua đó gián tiếp mài nhọn sức đề kháng.
 

● Trung hòa độc tính của chất sinh ung thư để tế bào ung thư tuy hiện diện trong mỗi cơ thể nhưng không thể tập trung lực lượng.

Theo BS Lương Lễ Hoàng - Pháp luật TPHCM

Cách phòng ung thư vú cho nam giới

So với nữ giới, căn bệnh quái ác ung thư vú thường ít gặp ở nam giới hơn, tỷ lệ mắc căn bệnh này thường thấp hơn.

Tuy nhiên, cánh mày râu vẫn cần hết sức thận trọng để tránh xa căn bệnh nguy hiểm này.
Ảnh minh họa - nguồn internet
Ảnh minh họa - nguồn internet
1. Triệu chứng nguy hiểm khi mắc ung thư vú
Chính bởi kích thước bầu vú của nam giới nhỏ, do đó khi xuất hiện những dấu hiệu khác thường sẽ dễ dàng phát hiện. So với nữ giới, chỉ cần lưu ý sự thay đổi ở bầu vú và vùng quanh ngực là có thể phát hiện kịp thời chứng ung thư vú và có biện pháp điều trị thích hợp. Các chuyên gia khuyến cáo, nếu xuất hiện những tín hiệu sau, nam giới cần nhanh chóng đi khám bệnh, làm những xét nghiệm cần thiết.
- Có cảm giác sưng thành các cục nhỏ. Khi nam giới mắc ung thư vú, những dấu hiệu thường thấy như vùng quanh vú sưng lên, xuất hiện các cục nhỏ, rắn ở xung quanh, bề mặt da quanh vú không nhẵn nhụi, độ linh động kém.
- Da vùng ngực bị lõm xuống. Núm vú lõm vào bên trong, thỉnh thoảng bị chảy máu hoặc mủ. Dù những cơn đau xuất hiện không thường xuyên và đau dữ dội, nhưng khi quan sát thấy núm vú bị co teo lại, da quanh núm vú bị đóng vảy, lập tức cần đi khám bác sỹ.
- Tuyến hạch sưng to. Một đặc điểm dễ nhận thấy của ung thư vú là nó dễ dàng dịch chuyển. Do đó, nếu phát hiện tuyến hạch ở nách sưng to kéo dài cần hết sức chú ý và đi khám sớm nhất có thể.
2. Nam giới phòng tránh ung thư vú như thế nào?
Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ vùng ngực, hình thành thói quen đi khám sức khỏe, đặc biệt là kiểm tra vú định kỳ để kịp thời phát hiện ra bệnh.
Đồng thời lưu ý những thay đổi xung quanh ngực. Nếu xuất hiện tình trạng đau cục bộ hoặc đau toàn vùng ngực, ngực sưng tấy nhưng không có cảm giác đau đớn, núm vú lõm vào bên trong hoặc có chất gì đó tiết ra từ vú cần lập tức đi làm những xét nghiệm cần thiết để phát hiện và điều trị bệnh.
So với nữ giới, nam giới thường hay dùng đồ ăn sẵn, đồ hộp, thuốc bổ, thực phẩm dinh dưỡng nhiều hơn, điều này cần hạn chế tối đa. Bởi hầu hết những thực phẩm trên đều chứa thành phần chất bảo quản không tốt cho sức khỏe. Do đó cần hết sức thận trọng khi lựa chọn những thực phẩm đó, sao cho vừa đảm bảo dinh dưỡng lại không gây hại cho sức khỏe.

Theo An Tường - Dân Việt/ QL

Dấu hiệu của ung thư lưỡi

Biểu hiện thường thấy của bệnh ung thư lưỡi là những vết loét lâu ngày, màu trắng hoặc đỏ ở hai bên lưỡi, có thể hơi đau...


Ung thư lưỡi: loại ung thư phổ biến

Ung thư lưỡi là bệnh thường gặp, phát sinh từ sự biến đổi ác tính biểu mô phủ lưỡi hoặc các mô liên kết cấu trúc lưỡi.

Mỗi năm, ở Pháp có khoảng 20.000 ca mắc mới và hơn 5.000 ca tử vong vì ung thư lưỡi. Nghiện thuốc lá và rượu được xem là những nhân tố chính gây ung thư lưỡi. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

Những ai dễ mắc bị ung thư lưỡi?

Có một thực tế là, đàn ông dễ bị ung thư lưỡi và các bệnh lý về lưỡi khác hơn phụ nữ. Lý do muôn thuở vẫn là rượu và thuốc lá. Theo số liệu ước tính của Pháp, có tới 80-90% ca ung thư lưỡi có liên quan đến thuốc lá và rượu.

Ngoài ra, chúng ta vẫn có nguy cơ mắc ung thư lưỡi (dù không sử dụng thuốc lá hay rượu bia) nếu vệ sinh răng miệng không được đảm bảo.

Tầng lớp trung niên (40-66 tuổi) dễ mắc loại ung thư này hơn những người khác.

Biểu hiện của ung thư lưỡi như thế nào?

Biểu hiện thường thấy của bệnh ung thư lưỡi là những vết loét lâu ngày, màu trắng hoặc đỏ ở hai bên lưỡi, có thể hơi đau hoặc không đau. Ngoài ra, nếu cảm thấy khó khăn trong quá trình chuyển động của lưỡi khi nói, nhai, ho,…; ngứa hoặc đau rát lưỡi khi uống rượu hoặc ăn các loại thức ăn có tính axit, cay; hôi miệng; chảy máu lưỡi; đau tai;… thì hãy đến gặp bác sĩ ngay để được khám và điều trị kịp thời.

Phòng tránh bệnh ung thư lưỡi bằng cách nào?

- Vệ sinh răng miệng đều đặn, thường xuyên.

- Sử dụng nước súc miệng chuyên dụng hoặc nước muối để súc miệng ngừa sâu răng và nhiễm trùng nướu răng.

- Hạn chế rượu, đồ uống có cồn và thuốc lá.

- Cuối cùng, nếu thấy vết loét lâu ngày không khỏi, và đặc biệt là có sự hiện diện của các khối u hạch bất thường ở cổ thì phải đến khám bác sĩ ngay.

Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư lưỡi
 
Việc chẩn đoán ung thư lưỡi dựa trên kết quả sinh thiết vùng bị tổn thương trên lưỡi. Nếu phát hiện sớm, bệnh nhân có thể được điều trị bằng các phương pháp đơn giản như súc miệng bằng dung dịch Chlorhexidine gluconate 0,2%, bôi thuốc và uống các loại thuốc kháng viêm.

Nếu phát hiện muộn, bệnh nhân buộc phải phẫu thuật triệt căn (cắt bỏ một phần lưỡi hoặc toàn bộ lưỡi, tuỳ theo kích thước và vị trí khối u) và được hỗ trợ trị xạ. 

Quá trình chăm sóc, điều trị hậu phẫu khá phức tạp vì ung thư lưỡi có nguy cơ tái phát và biến chứng rất cao. Hơn nữa, giống như các loại ung thư khác, bệnh ung thư lưỡi có thể di căn đến phổi, gan hoặc xương,…


Theo Huyền Thu - Dân trí/ e-sante.fr

Ung thư gan và những cách điều trị

Ung thư là một nhóm bệnh hoặc căn bệnh được di truyền và khiến tế bào trong người thay đổi và tăng số một cách không thể kiềm chế được.

Nhiều loại tế bào ung thư trở thành một đống gọi là bướu. Tế bào ung thư độc có thể xâm lấn vào những mạch máu và bạch huyết, và lan tràn qua những bộ phận khác của cơ thể và từ đó tiếp tục mọc lớn và cản trở những cơ năng bình thường của bộ phận đó.

Ung thư gan gồm có hai loại, một loại bắt nguồn từ gan (gọi là ung thư gan hạng nhất) và một loại bắt nguồn từ những bộ phận khác trong người và tràn đến gan (được gọi là ung thư gan di căn hoặc ung thư gan hạng nhì). Ung thư gan hạng nhất bắt đầu trong gan, bộ phận lớn nhất trong thân thể mình. Những chức vụ của bộ phận gan gồm có:
 
Tích trữ vi-ta-min và chất dinh dưỡng
Trao đổi chất dinh dưởng trong cơ thể
Kiểm soát mức đường trong máu
Phát xuất yếu tố đông máu
Khử hoạt tính của thuốc độc và những hoá chất khác
Ung thư biểu bì tế bào gan (Hepatocellular carcinoma, HCC)
 
HCC, vẫn được gọi là hepatoma, là loại bướu độc thông thường nhất của ung thư gan hạng nhất. Tuy rằng HCC hiếm có đối với đa số người dân Hoa Kỳ và Âu Châu, nó chính là một trong 3 nguyên nhân lớn nhất khiến người chết vì ung thư trong nhiều quốc gia Á Châu và Phi Châu. Tài liệu từ Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health Organization) cho biết rằng ít nhất là 550,000 người chết hàng năm vì HCC, 75% (khoảng 400,000) của số đó là dân của những quốc gia trong vùng Đông Nam Á Châu và dọc theo bờ Thái Bình Dương.
 
Cở chừng 80% của những trường hợp ung thư gan là vì gan của bệnh nhân bị nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan B (HBV) kinh niên từ lúc còn bé (đây chính là trường hợp của nhiều người gốc Á Châu có viêm gan B), phần còn lại là bởi vì nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan C.Trung Tâm Kiềm Chế và Đề Phòng Bệnh (Centers for Disease Control and Prevention) cho biết rằng sự bất đồng sức khỏe lớn nhất giữa người Mỹ gốc Á Châu và người Mỹ trắng là ung thư gan. Chích ngừa để phòng chống viêm gan B có thể ngăn cản ung thư gan trong 80% người gốc Á Châu ở Hoa Kỳ và khắp thế giới.
Triệu chứng
 
Ung thư gan được gọi là sát thủ âm thầm vì đa số bệnh nhân vẫn cảm thấy khỏe mạnh và không có dấu hiệu hoặc triệu chứng. Những đống bướu nhỏ không có thể tìm được qua cách mò vì vị trí của gan nằm dưới xương sườn và vì thế bị che khuất. Sự đau nhức thường không có thể cảm giác được cho đến lúc đống bướu đã mọc lớn, và một số bướu không gây đau nhức hoặc những triệu chứng khác cho dù nó đã to lớn. Thêm một nguyên do rắc rối nữa là mức mọc của một số loại ung thư gan.
 
Những giai đoạn chót của ung thư gan, lúc nó đã to lớn hoặc lúc nó gây trở ngại cho những cơ năng của gan, có thể sanh ra những triệu chứng rõ ràng như đau nhức trong vùng trên phải của bụng, giảm cân, ăn không ngon miệng, và cuối cùng là mắt và da bị vàng thêm (bệnh hoàng đản) và bụng bị phồng lên.
 
Sự chẩn đoán lúc đã quá muộn có thể giải thích tại sao bệnh nhân chỉ có thể tiếp tục sống trung bình 3-6 tháng sau khi bệnh đã được phát hiện, và tại sao y giới thường hoài nghi lúc đề cập đến ung thư gan. Cách duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị chính là chẩn đoán ung thư lúc còn sớm bằng cách truy tìm ung thư trong những người gốc Á Châu đang có viêm gan B và trong những người đang bị xơ gan vì nhiễm viêm gan B hoặc C.
Truy tìm ung thư gan
Một điều quan trọng mọi người phải thừa nhận là tất cả những người gốc Á Châu có viêm gan B vì bị nhiễm lúc còn trẻ có nguy cơ cao đễ phát triển bệnh ung thư gan cho dù họ có xơ gan hay không. Nguy cơ này cao hơn trong những người đàn ông và những người nào có ung thư gan di truyền trong gia đình. Mọi người đồng ý rằng vấn đề truy tìm ung thư gan thường xuyên rất là quan trọng cho những người gốc Á Châu có viêm gan B, nhưng công việc này đối với những người Mỹ trắng đã bị nhiễm lúc đã lớn tuổi hiện vẫn đang gặp nhiều tranh luận.
 
Tuy rằng những bệnh nhân gốc Á Châu có thể phát bệnh ung thư gan vào lúc đang còn tuổi thanh niên, tài liệu từ Hoa Kỳ cho biết rằng sự nguy cơ phát triển ung thư gan bắt đầu lên cao vào khoảng 30 tuổi. Một cách hợp lý để đối phó tình trạng này là bắt đầu thường xuyên truy tìm ung thư gan bắt đầu vào lúc 30-40 tuổi nếu bệnh nhân là người gốc Á Châu. Việc truy tìm đại khái gồm có một cuộc thử máu để xem xét mức alpha-fetoprotein (AFP) cách mỗi 6 tháng và siêu âm gan mỗi năm một lần (Tại Đài Loan, bệnh nhân nên được siêu âm mỗi năm hai lần).
 
Chỉ một trong hai cách thử nghiệm riêng có thể khiến chẩn đoán sai lầm. Mức alpha-fetoprotein chỉ lên cao trong 60-70% trường hợp ung thư gan, vì thế chỉ thử máu riêng thôi sẽ bỏ sót 30-40% trường hợp ung thư gan. Siêu âm có thể bỏ sót 20% của những trường hợp ung thư gan chưa tới 2 cm, nhất là khi việc phân tích hình siêu âm khó khăn vì gan bị xơ hại. Sau khi phát bệnh xơ gan, bệnh nhân nên được truy tìm thường xuyên.
Ước định tình trạng ung thư gan
Siêu âm cho gan hoặc xem xét bằng CT thường có thể được áp dụng để chẩn đoán HCC, nhưng hai cách này thường không có đủ độ nhạy bén để có thể nhận ra những vết thương tổn nhỏ có nhiều tiêu điểm hoặc để áp dụng trong kế hoạch điều trị. Chủ yếu là sự ước định kỹ lưỡng ở vùng bụng qua cách xem xét bằng máy CT xoắn ốc với hai phương diện. Máy CT xoắn ốc nhanh lẹn này có năng lực để dò xét gan dưới phương diện động mạch không lâu sau khi bệnh nhân được nhận thức phẩm trong tĩnh mạch để làm chất tương phản.
 
Các cục bướu thường hay thâu nhận chất tương phản và vì thế ngay cả các cục bướu chứa đựng nhiều mạch máu vẫn có thể nhận thấy được. Những cục bướu loại này thường bị bỏ sót nếu dung kỷ thuật CT thông thường và máy dò xét chậm chạp. Một vết thương tổn chứa đựng nhiều mạch máu được thấy rõ ràng dưới phương diện động mạch mà lại phai đi dưới phương diện tĩnh mạch trong lúc dò xét là đặc tính của HCC.
 
Người Á Châu nào mang bệnh viêm gan B và có loại bướu này trong gan, hoặc bệnh nhân nào bị xơ gan liên quan với mức AFP tăng lên (hoặc một mức quá 500), là tương đương với sự chẩn đoán bệnh HCC và không cần dùng cách sinh thiết để kiểm lại và xác định. Cách sinh thiết dùng kim nhỏ dưới da có thể được áp dụng trong trường hợp sự chẩn đoán giữa bướu ung thư gan hạng nhất hoặc ung thư gan di căn không được chắc chắn, dưới điều kiện là thí nghiệm này có thể được thực hiện một cách an toàn. Sự chảy máu sau khi thử nghiệm sinh thiết có thể đe dọa đến sinh mạng nếu bệnh nhân bị xơ gan và có số lượng tiểu cầu thấp, thời gian đông máu kéo dài, và mạch máu mở rộng vì tăng áp suất (tăng huyết áp mạch cửa). Đại khái, vết thương tổn gan loại di căn rất hiếm có trong những bệnh nhân bị xơ gan.
Điều trị HCC
Điều trị cho ung thư gan được gặp nhiều thách thức so với những loại ung thư khác vì ngoài căn bệnh, gan của nhiều bệnh nhân đã bị thiệt hại do bệnh viêm gan kinh niên gây đến xơ gan hoặc suy nhược gan. Ðiều trị cho bệnh ung thư gan mà lại không chú ý đến tình trạng bấp bềnh của bộ gan có thể khiến bệnh nhân chết sớm hơn. Nhiều bệnh nhân có bộ gan yếu đến nỗi họ có nhiều nguy cơ chết vì hư gan hơn là chết vì có ung thư. Cho mỗi bệnh nhân, những lợi ích của các cách trị liệu phải được so sánh và cân bằng với nguy cơ hư gan và cách tình trạng ấy có thể ảnh hưởng đời sống của họ.
 
Tại trường đại học Stanford, một phương hướng mới đã được chọn để cho những bệnh nhân nào có bướu trong gan có thể được khám xét bởi một nhóm chuyên gia tại Trung Tâm Kỷ Luật Gan/Ban Bướu để bàn cách điều trị bướu và những căn bệnh gan hoặc viêm gan. Những cách trí liệu mới cũng được khám xét. Tất cả các bệnh nhân được điều trị sẽ được theo giỏi lâu dài và được ghi tên vào hệ thống đăng ký điện tử của trường Stanford.
Ðiều trị bằng cách giải phẫu
Lúc cục bướu vẫn còn nhỏ hoặc cho rằng có thể cắt bỏ được, và tình trạng của gan của bệnh nhân có đủ năng lực để trải qua cuộc giải phẩu, thì cách giải phẩu cắt bỏ là cách hữu ích nhất để cho bệnh nhân sống lâu dài. Sự cải tiến trong ngành giải phẩu và cách điều khiển thuốc mê đã tăng tỷ lệ sống sót và hạ nguy cơ thiệt mạng trong thời gian giải phẩu xuống còn ít hơn 2-5% dưới sự điềi trị của y sĩ kinh nghiệm, và đa số bệnh nhân có thể dời bệnh viên sau 5 ngày. Tuy rằng cục bướu đã được cắt bỏ hoàn toàn, bệnh nhân vẫn có nguy cơ rằng căn bệnh sẽ tái phát, và họ cần phải luôn luôn được kiểm tra kỹ lưỡng, nhất là trong năm đầu tiên, lúc nguy cơ tái phát bệnh được cao nhất.
Ðiều trị ngoài cách giải phẫu
Cho những bệnh nhân nào không có đủ điều kiện để được cắt bỏ bướu vì lý do sức khỏe hoặc cơ thể, một số cách điều trị khác, tuy ít hiệu lực, đang được có sẵn hoặc đang được nghiên cứu để tìm cách kiềm chế căn bệnh lâu dài và với mục đích gìn giữ lối sống bình thường của bệnh nhân. Sự điều trị cho những bệnh nhân này phải tùy theo tình trạng của bệnh nhân, tình trạng của gan, và mức phát triển của căn bệnh.
 
Hoá liệu pháp thông thường đại khái có hiệu lực thấp, khiến rất nhiều tác dụng thứ yếu có thể giảm bớt phẩm chất của đời sống bệnh nhân, và thường không có thể kéo dài đời sống cho bệnh nhân. HCC là bướu chứa đựng nhiều mạch máu thường được tiếp tế bởi những nhánh của đường đông mạch trong gan. Tài năng của chuyên gia can thiệp bằng tia X để đi thông qua những đường mạch này và đưa ống thuốc chính xác đến những nhành này cung cấp cho chúng ta một cách để nhắm liệu pháp trực tiếp vào đống bướu.
 
Cách điều trị dùng hoá chất để chấn động mạch hoặc đổi máu với nước biển trong tĩnh mạch (TACE hoặc TAC) của gan thường được dùng bởi chuyên gia can thiệp bằng tia X tại Á Châu và đã được áp dụng bởi Phòng Mạch Gan Toàn Diện tại Stanford trong bốn năm qua để chữa trị một số bệnh nhân có vết tổn thương không có thể cắt bỏ được.
 
Tuy rằng cách chữa trị này chỉ dùng để điều trị dưới những điều kiện rất khó khăn và kỷ lưỡng để giảm nguy cơ tai hại những phần trong gan không có vết tổn thương, cách điều trị này không có hợp với những bệnh nhân có dấu hiệu suy gan (chất đản bạch trong huyết thanh dưới 3 gm/dL, chất sắc tố mật quá 1.5 gm/dL, và có nước trong bụng gọi là cổ trướng) và những bệnh nhân có tĩnh mạch cửa bị chận lại. Cho những bệnh nhân có phản ứng tốt, bệnh nhân sẽ được điều trị mỗi 4 tháng nếu cần thiết cho đến lúc mức AFP trở lại bình thường hoặc đến lúc hết tìm thấy vết tổn thương.
 
Cách điều trị này chỉ cần bệnh nhân ở nhà thương qua đêm để theo dỏi và thường có thể chịu đựng được nếu dùng cách nêu trên. Những cách điều trị lâu dài với TACE hoặc TAC có liên quan với sự kéo dài đời sống của bệnh nhân, và trong trường hợp đống bướu được kiểm soát kỷ lưởng hoặc teo rút nhỏ lại, bệnh nhân có thể được giải phẩu cắt bỏ hoặc ghép gan.
Ghép gan
Ghép gan là một cách điều trị HCC nếu không có thể áp dụng giải phẩu hoặc những cách y khoa khác để cắt bỏ bướu, dưới điều kiện là đống bướu còn nhỏ (dưới 5 cm hoặc có ít hơn 4 vết thương tổn), nằm hoàn toàn trong gan, và không có xâm lấn vào mạch máu. Một bản báo cáo về một cuộc nghiên cứu bởi Trung Tâm Gan Á Châu tại Trường Đại Học Stanford cho thấy rằng những bệnh nhân nào có phản ứng tốt với TACE hoặc TAC cũng có tỷ lệ sống sót cao sau khi ghép gan.
 
Các đống bướu lớn có nguy cơ cao để tái phát và bệnh nhân có thể chết sau khi ghép gan. Sau khi ghép gan, bệnh nhân phải được tiếp nhận huyết cầu miễn dịch viêm gan B (HBIG) hoặc lamivudine, hoặc cả hai, để ngăn ngừa sự lây nhiễm HBV trong gan mới. Điều trị ung thư gan vẫn là một vấn đề rất là khó khăn và cần sự thấu hiểu trong rất nhiều ngành, gồm bệnh ung thư gan, cách chẩn đoán bằng tia X, giải phẩu, ghép bộ phận, và những căn bệnh liên can với gan. Sự chẩn đoán những đống bướu nhỏ lúc còn sớm là cách hữu ích duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị ung thư gan, và trường hợp này chỉ có thể xảy ra qua sự truy tìm trong những dân số có nguy cơ cao.

Theo Sức khỏe & Đời sống/ Trung Tâm Gan Á Châu - Đại học Stanford

7 dấu hiệu nhận biết ung thư vòm họng

Chảy máu cam, nghẹt mũi, ù tai, nhức đầu... là những biểu hiện thường thấy của bệnh ung thư vòm họng.

Phát hiện và điều trị sớm bệnh là cơ hội sống tốt nhất cho bạn.

Tế bào ung thư vòm họng phát sinh từ các lớp trên của niêm mạc mũi họng, giai đoạn đầu bệnh không có triệu chứng rõ ràng, trong quá trình chẩn đoán lâm sàng cũng rất khó phát hiện ra bệnh.
 
Các triệu chứng sớm của ung thư vòm họng, ngoài hiện tượng ù tai hoặc đau nửa đầu, cơ bản không có hiện tượng khác. Khi đã di căn, khối u lấn sang các vùng xung quanh, bề mặt khối u bị loét, chảy máu, chảy mũi nhầy lẫn máu; hoặc khối u làm tắc nghẽn mũi, gây ngạt mũi, ù tai, tức như bị nút ráy tai, nghe kém.
 
Một số bệnh nhân bị nhức đầu, đau nửa đầu, đau sâu trong hốc mắt, vùng thái dương, đau từng cơn hoặc âm ỉ, các triệu chứng ở tai và mũi xuất hiện nhiều hơn. Do triệu chứng của người mắc ung thư vòm họng không điển hình và tương đối giống với các bệnh tai mũi họng thông thường, vì vậy việc phát hiện bệnh sớm là tương đối khó khăn.
Ảnh minh họa - nguồn internet
Ảnh minh họa - nguồn internet
Nếu xuất hiện một trong những triệu chứng dưới đây, bạn hãy cảnh giác:
1. Chảy máu cam

Là một trong những triệu chứng sớm nhất của ung thư vòm họng, nước mũi chủ yếu chảy ra từ một bên có kèm theo máu. Hầu hết bệnh nhân thường nuốt nước mũi và nhổ ra theo đường miệng khiến vì vậy khiến nước mũi kèm theo máu dễ bị chẩn đoán nhầm hoặc bị bỏ qua. Giai đoạn cuối có thể gây chảy máu liên tục.
2. Nghẹt mũi 

Sau khi xuất hiện khối u, sẽ có hiện tượng tắc 1 bên mũi, khi khối u to lên sẽ khiến 2 bên đều bị nghẹt.
3. Ù tai và nghe kém 
Khối u cản trở và đè lên thực quản, đồng thời gây ù tai, nghẹt tai, nghe kém hoặc kèm theo tràn dịch tympanic.
4. Nhức đầu 

Thường do khối u phá hủy nền sọ, dẫn đến di căn vàog não và dây thần kinh sọ. Ở kỳ cuối, dễ bị chẩn đoán nhầm là đau thần kinh.
5. Nổi hạch ở cổ 
Theo thống kê, ung thư vòm họng di căn phần cổ chiếm 40-85%. Do vòm họng có cấu trúc mô bạch huyết phong phú, các tế bào ung thư dễ dàng lan sâu lên trên cổ muộn hơn phát triển vào trong, xuống dưới, ra phía trước và hai bên. Khi phát triển số lượng càng nhiều , tốc độ càng nhanh, hạch cứng và không cho cảm giác đau đớn, tính hoạt động kém; vào giai đoạn cuối sẽ bám dính cố định.
6. Hội chứng nội sọ 

Khối u trong não bị vỡ lan sang các dây thần kinh sọ não gây ra các hội chứng nội sọ như nhức đầu, tê bì mặt, mờ mắt, xệ mí, lác trong, thậm chí mù. Hạch bạch huyết di căn xuyên qua các dây thần kinh sọ não ở nền sọ dẫn đến mất cảm giác ở cổ họng, vòm miệng tê liệt, nhai nuốt khó khăn, khàn giọng, liệt màn hầu.
7. Di căn 

Trong giai đoạn cuối, ung thư vòm họng di căn ở phạm vi mắt, não, xương, phổi, gan và các bộ phận khác, đặc biệt là ở phổi và xương. Nếu người bệnh phát hiện triệu chứng nặng ở bộ phận nào, như một số bộ phận xương cố định bị đau, máu có đờm, thường xuyên đau ngực, gan sưng to, nhãn cầu lồi, thị lực giảm…cho thấy bệnh đã di căn .
 

Theo Hạnh Phúc - Dân trí/ 39jk)

Ung thư miệng

Ung thư miệng hay ung thư khoang miệng là loại u ác tính có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trong khoang miệng như lợi, lưỡi, môi, má, vòm việng, sàn miệng.


Theo thống kê trên thế giới cho thấy ung thư miệng là một trong sáu loại ung thư thường gặp nhất.
Càng ngày người ta thấy tỷ lệ ung thư miệng trong cộng đồng càng tăng dần lên, đặc biệt với người trẻ. Ở châu Á, đặc biệt là Ấn Độ, ung thư miệng chiếm đến 40% ung thư nói chung. Trên thế giới hàng năm, người ta ước tính có khoảng 500.000 trường hợp mắc ung thư mới và có khoảng 1,5 triệu người đang sống chung với bệnh ung thư miệng.

Nguyên nhân
Nguyên nhân chính gây ung thư miệng đến nay chưa rõ, nhưng chắc chắn người ta đã xác định được các yếu tố nguy cơ cao gây ung thư miệng đó là: Sử dụng thuốc lá ở các dạng khác nhau (có kèm theo hoặc không kèm theo uống rượu) như hút thuốc lá, thuốc lào, tẩu thuốc, nhai trầu thuốc. Những người dùng thuốc lá có kèm uống rượu thì nguy cơ bị mắc bệnh cao hơn lên rất nhiều; Nghiện rượu nặng; Nhiễm virus HPV (Human Papiloma Virus); Các tổn thương tiền ung thư khác của khoang miệng như bạch sản, hồng sản, viêm nấm candida quá sản mạn tính, các vết loét do sang chấn liên tục kéo dài...
Như vậy, có thể nói bệnh ung thư miệng là bệnh có thể phòng tránh được bằng cách loại trừ các nguy cơ này.
  
 Hình ảnh ung thư ở lợi giai đoạn sớm
 
Các dấu hiệu nghi ngờ và triệu chứng sớm 
Không giống các bộ phận khác của cơ thể, ung thư miệng thường xuất hiện với những triệu chứng sớm mà bệnh nhân cảm nhận được khi ăn uống, nuốt, nói ngay cả khi tổn thương còn rất nhỏ.
Ung thư miệng nẩy sinh từ khoang miệng, có thể được phát hiện sớm bởi thầy thuốc và chính bản thân người bệnh. Không giống các bộ phận khác của cơ thể, ung thư miệng thường xuất hiện với những triệu chứng sớm mà bệnh nhân cảm nhận được khi ăn uống, nuốt, nói ngay cả khi tổn thương còn rất nhỏ. Ở thời kỳ này việc chẩn đoán xác định rất dễ dàng bằng cách cắt tổn thương nghi ngờ làm mô bệnh học dưới tác dụng gây tê tại chỗ.
 
Ung thư miệng có thể có các biểu hiện: Loét bờ gồ, có hoại tử trung tâm vết loét; Các ổ loét ở các đường nứt sâu trên lưỡi; Các loét nham nhở ở niêm mạc miệng, dễ chảy máu khi đụng chạm nhẹ; Các mảng cứng ở miệng; Các quá sản lợi khu trú ở một răng hay một nhóm răng.

Để giúp thầy thuốc chẩn đoán sớm ung thư miệng, khi có các dấu hiệu sau đây, người bệnh cần đến khám các cơ sở chuyên khoa phẫu thuật miệng hàm mặt: Bất cứ vết loét nào tồn tại trong miệng trên 2 tuần; Bất cứ chảy máu nào trong miệng không giải thích được; Sờ thấy bất cứ mảng cứng nào trong miệng; Bất cứ mảng trắng nào trong miệng; Bất cứ mảng đỏ hay đỏ trắng nào trong miệng; Hàm giả đang sử dụng bình thường tự nhiên không đeo được hoặc lắp không khít; Đau, khó vận động lưỡi; Đau xương hàm; Đau khi nuốt; Đau khi ăn nhai; Đau họng.
Khi có các dấu hiệu trên, cần đến ngay cơ sở y tế. Thầy thuốc sẽ làm các quy trình sau để khám và chẩn đoán bệnh cho bệnh nhân: Khám đánh giá tổn thương; Gây tê tại chỗ, cắt tổn thương để làm mô bệnh học; Một số trường hợp nếu tổn thương nghi ngờ lan rộng hoặc ở sâu, để giúp cho chẩn đoán và điều trị, thầy thuốc có thể chỉ định cho làm thêm các thăm dò khác như chụp X quang, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ, chụp PET scan... tùy theo sự đánh giá tổn thương khi thăm khám.
Ðiều trị ung thư miệng
Điều trị ung thư miệng hiện tại có 3 biện pháp chủ yếu là phẫu thuật, xạ trị và điều trị hóa chất. Với các ung thư miệng đến sớm, việc điều trị phẫu thuật cắt bỏ khối u có kết quả rất khả quan. Tỷ lệ bệnh nhân sống trên 5 năm lên đến 85%.
Tùy theo tiến triển của u, có thể áp dụng các mức độ điều trị phẫu thuật khác nhau: Cắt bỏ u đơn thuần; Cắt u và nạo vét hạch cổ; Cắt u, nạo vét hạch cổ kèm phẫu thuật tái tạo.
Xạ trị có thể được sử dụng phối hợp trước hoặc sau phẫu thuật để tăng thêm hiệu quả điều trị, tuy nhiên nó cũng có nhiều tác dụng phụ như khô miệng, sâu răng, loét, chảy máu khoang miệng, hoại tử xương hàm...
Hóa trị liệu có thể dùng phối hợp với xạ trị trong một số trường hợp để làm tăng tác dụng của xạ trị. Hóa trị thường gây ra những tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, rụng tóc.
Theo dõi sau điều trị
Bệnh nhân sau điều trị ung thư cần được theo dõi chặt chẽ theo lịch trình sau: Một năm đầu bệnh nhân cần được khám lại mỗi tháng 1 lần; Năm thứ 2 cần khám lại 2 tháng một lần; Các năm sau khám lại sau mỗi 6 tháng.
Mục đích của việc khám định kỳ là để điều trị các vấn đề răng miệng như sâu răng, bệnh quanh răng, cải thiện chất lượng cuộc sống và đặc biệt để phát hiện xử trí tái phát hoặc các ổ ung thư mới nếu có.
Phòng bệnh
Để phòng ngừa ung thư miệng cần áp dụng các biện pháp sau: Bỏ thuốc lá để tránh cho các tế bào khoang miệng tiếp xúc hóa chất gây ung thư; Không uống rượu quá mức; Tăng cường ăn các loại rau quả giàu vitamin, đặc biệt là cà rốt; Riêng với ung thư môi, để phòng ngừa nên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời quá nhiều và nên dùng kem bảo vệ môi khi ra nắng; Khám răng miệng định kỳ 6 tháng 1 lần ở các cơ sở chuyên khoa.

Theo Sức khỏe & Đời sống

Dấu hiệu phát hiện sớm ung thư âm đạo

Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng bắt đầu xuất hiện. Cần chú ý phát hiện sớm để có biện pháp điều trị kịp thời, tránh những hậu quả đáng tiếc.

Ung thư âm đạo là một loại ung thư hiếm gặp, hình thành trong các tế bào âm đạo của phụ nữ. Trong gia đoạn đầu, bệnh này thường không có bất kỳ triệu chứng gì đáng chú ý nên rất khó chẩn đoán.
Các triệu chứng ung thư âm đạo
Chảy máu âm đạo bất thường: chảy máu âm đạo bất thường sau khi quan hệ tình dục hoặc ở những phụ nữ đã mãn kinh là triệu chứng đầu tiên và thường gặp nhất của bệnh ung thư âm đạo. Tuy nhiên, chảy máu sau mãn kinh và sau khi quan hệ cũng có thể là triệu chứng của các bệnh phụ khoa khác.
Siêu âm đầu dò âm đạo giúp phát hiện bệnh
Siêu âm đầu dò âm đạo giúp phát hiện bệnh
Tiết dịch âm đạo: mặc dù dịch âm đạo là hiện tượng phổ biến thường gặp ở nhiều chị em và cũng không cần quá quan tâm, nhưng dịch âm đạo bất thường, có mùi khó chịu hoặc có màu máu, lẫn với máu lại có thể là triệu chứng của ung thư âm đạo. Điều này là cực kỳ hiếm, và có nhiều khả năng do sự bất thường đáng lo ngại nào đó. Vậy nên, tốt nhất nếu thấy triệu chứng này, chị em cần đi khám bác sĩ càng sớm càng tốt.
Thay đổi thói quen đi tiểu: nếu nhận thấy là mình đi tiểu nhiều hơn bình thường thì chị em cần tìm hiểu nguyên nhân của nó. Hiện tượng này có thể do uống nhiều nước, uống đồ uống có caffein, hoặc do nhiễm trùng đường tiểu.
Tuy nhiên, cũng không thể loại trừ khả năng những bệnh trầm trọng hơn. Nếu cảm thấy đau khi đi tiểu hoặc tiểu ra máu, chị em cần hết sức chú ý, bởi đây cũng có thể là biểu hiện của ung thư âm đạo. Mặc dù bằng mắt thường có thể rất khó phát hiện nước tiểu có lẫn máu, nhưng chị em có thể để ý nếu thấy nước tiểu màu hồng hồng hoặc có vệt máu ở đáy quần lót.
Đau vùng chậu: khung chậu đau thường là khi bệnh ung thư âm đạo đã bắt đầu lây lan. Đau vùng chậu có thể là đau hay cảm thấy áp lực và tức ở vùng bụng dưới rốn. Bạn có thể cảm thấy đau liên tục hoặc thi thoảng mới đau. Nhiều phụ nữ bị đau vùng chậu mô một cách âm ỉ, có lúc đau quặn lên.
Rối loạn tiêu hóa: nguyên nhân của nhiều bệnh trong đó có ung thư âm đạo. Khi ung thư âm đạo tiến triển, phụ nữ có thể bị táo bón mãn tính, phân đen mùi khó chịu và có cảm giác như thể ruột chưa được hoàn toàn thông sau khi đi “ngoài”.
Phòng ngừa
Thực hành tình dục an toàn có thể làm giảm nguy cơ ung thư âm đạo. Nên sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục để bảo vệ chống lại các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Tiêm vắc-xin phòng ung thư cổ tử cung có thể giúp ngăn ngừa các bệnh ung thư khác liên quan đến cổ tử cung như ung thư âm đạo. Bạn nên tiêm vắc-xin này trước 26 tuổi vì sẽ phát huy được cao nhất hiệu quả phòng bệnh của vắc-xin.
Kiểm tra khung xương chậu có thể giúp chẩn đoán âm đạo và ung thư khác.

Theo Sức khỏe & Đời sống

10 dấu hiệu cảnh báo bệnh ung thư phổi

Hằng năm, căn bệnh ung thư phổi khiến gần 1,4 triệu người trên toàn thế giới thiệt mạng. Tuy nhiên, nếu bệnh được phát hiện kịp thời thì có thể chữa trị.

1. Trầm cảm và thay đổi tâm trạng
Các nhà nghiên cứu gần đây đã phát hiện thấy có mối liên quan giữa lần đầu tiên chẩn đoán trầm cảm, lo lắng và các triệu chứng tâm thần khác với ung thư phổi. Sau khi nghiên cứu 4 triệu người trong 10 năm, các nhà nghiên cứu thấy ở những người bước vào độ tuổi 50 đến 64 tuổi và được khuyên đi điều trị tâm lý lần đầu tiên trong đời, tỷ lệ ung thư tăng gần 4 lần.

2. Thường xuyên ốm

Thường xuyên bị cảm lạnh, cúm, viêm phế quản hoặc viêm phổi có thể khiến bạn nghĩ rằng hệ miễn dịch của mình có vấn đề. Tuy nhiên, đó cũng là dấu hiệu của bệnh ung thư phổi. Điều này đặc biệt đúng với những phụ nữ hút thuốc lá. Với những người bị ung thư phổi, các triệu chứng cảm lạnh, cúm... cũng tương tự như những người bình thường. Khác biệt ở chỗ, những triệu chứng này ở bệnh nhân ung thư thường kéo dài hoặc hay tái phát.

3. Mất cảm giác ngon miệng hoặc giảm cân không giải thích được

Nếu bạn giảm cân mà không thay đổi gì về lối sống hoặc ăn mà không thấy ngon miệng, có thể đó là dấu hiệu của bệnh ung thư phổi. Lúc đó, bạn không có hứng thú ăn uống, khi ăn thì nhanh thấy đầy bụng hoặc thấy buồn nôn khi ăn quá nhiều hay quá nhanh.


4. Vú to bất thường ở nam giới


Hiện tượng vú to bất thường ở nam giới (nữ hóa tuyến vú) cũng là dấu hiệu cho thấy những vấn đề sức khoẻ. Hiện tượng này có thể khó nhận thấy, cũng có thể diễn ra đột ngột, có lúc chỉ xảy ra ở một bên vú. Vú thường nở to hơn ở khu vực xung quanh và dưới núm vú. Nguyên nhân là khi khối u phát triển, nó giải phóng hormon, protein và các chất khác gây ra hội chứng cận ung thư. Sự thay đổi hormon bất thường này dẫn đến sự phát triển bất thường ơ vú.

5. Mệt mỏi

Dấu hiệu ban đầu của bệnh ung thư phổi là mệt mỏi, suy nhược kéo dài mà không có nguyên nhân rõ ràng. Những chất do khối u giải phóng vào máu có thể ảnh hưởng đến nồng độ oxy, các tế bào hồng cầu, chức năng tuyến thượng thận... Ung thư di căn có thể ảnh hưởng đến tuyến thượng thận, trực tiếp kiểm soát việc giải phóng năng lượng và sự kích thích cortisol - hormon thúc đẩy bạn hành động.
Trầm cảm cũng có mối liên quan đến bệnh ung thư phổi.
Trầm cảm cũng có mối liên quan đến bệnh ung thư phổi.

6. Đầu ngón tay dày lên và đau

Đầu ngón tay dày lên có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân phổ biến nhất là do ung thư phổi. Nhiều người nhầm lẫn triệu chứng này là biểu hiện của bệnh viêm khớp. Đầu ngón tay trông có vẻ to lên, đỏ, nóng hoặc sưng ở phía dưới móng tay.

7. Hơi thở ngắn


Khoảng 15% trường hợp ung thư phổi xảy ra ở người không hút thuốc, thường là do tiếp xúc với không khí ô nhiễm, khói thuốc lá hoặc các hóa chất như amiăng và radon. Khi bị ung thư phổi, bạn sẽ cảm thấy như mình đang bị hen suyễn, khó thở sâu và cảm thấy khó chịu trong lồng ngực.

8. Ho dai dẳng hoặc khàn tiếng

Bệnh nhân ung thư phổi thường bị thay đổi giọng nói hoặc ho tái phát trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Ngoài ra, còn có những triệu chứng như giọng khàn khàn, ho khan, đờm có màu nâu đỏ, dính máu. Thậm chí bạn còn có thể thấy máu trong nước bọt.

9. Yếu cơ


Liên tục bị yếu cơ là một trong những dấu hiệu cảnh báo đầu tiên của bệnh ung thư phổi. Hội chứng nhược cơ Lambert-Eaton xảy ra khi khối u phổi giải phóng kháng thể tấn công các cơ. Những tế bào ung thư có thể tiết ra các chất làm gián đoạn hoạt động của tế bào hồng cầu, gây thiếu máu hoặc làm giảm mức natri và nâng cao mức canxi trong máu.

10. Đau ngực, vai, lưng hoặc bụng

Đau ngực không chỉ là triệu chứng của bệnh đau tim mà còn có thể là biểu hiện của ung thư phổi. Khi khối u phát triển, ngực và lưng thường xuyên bị đau nhức. Ung thư phổi có thể gây đau khi khối u trực tiếp tạo ra áp lực hoặc khi khối u tác động tới các dây thần kinh đi qua khu vực này.


Theo Khoa học & Đời sống

Ung thư vú và những hiểu lầm đáng tiếc

Nhiều chị em nghĩ mình còn trẻ, chưa lập gia đình hay trong thời kỳ cho con bú đều không có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú...

Theo các chuyên gia, đây là những hiểu lầm đáng tiếc nhưng phổ biến ở bệnh nhân trẻ tuổi.
  
Bác sĩ khuyến cáo nếu phát hiện những dấu hiệu không bình thường ở phần vú nên đi khám sớm. Trong ảnh: siêu âm chẩn đoán ung thư vú tại Medic, TP.HCM - Ảnh: N.C.T

Một kết quả công bố của Bộ Y tế tại hội thảo quốc gia phòng chống ung thư cho thấy hơn 70% trường hợp phát hiện bệnh ung thư khi tế bào ung thư đã bước sang giai đoạn xâm lấn. Trong khi đó, việc điều trị trở nên dễ dàng, bệnh nhân có nhiều cơ hội hơn nếu tế bào ung thư được phát hiện kịp thời, ở những giai đoạn sớm.
 
Apxe và tắc tuyến sữa
"Để kích khối u, hạch tan mau, nhiều thầy lang dùng biện pháp đốt nóng thuốc đắp. Chính hơi nóng này vô tình kích thích mạch máu đến nuôi khối u lớn nhanh hơn"
ThS.BS Đỗ Thị Thúy Hằng
Hạch xuất hiện ở vùng nách gây đau nhức, chị T.T.S. (45 tuổi, Thanh Hóa) nghi ngờ mình bị apxe (bị nổi hạch, thường kèm theo sốt, đau nhức...) nhưng không đi khám mà nghe lời tư vấn của người thân đi mua thuốc. Được một thời gian, hạch không những không tiêu tan mà còn xuất hiện thêm những cục nhỏ xung quanh vùng ngực. Hoảng hốt đi khám ở bệnh viện đa khoa tỉnh chị được bác sĩ ở đây kết luận bị ung thư vú. Không tin vào kết quả bệnh viện tuyến tỉnh, chị S. lên Viện K khám, các bác sĩ một lần nữa khẳng định chị S. bị ung thư vú, giai đoạn 3, buộc phải cắt bỏ vú trái và truyền hóa chất.
Đáng tiếc hơn là trường hợp chị H.T.T. (30 tuổi, Ninh Bình). Sinh con được vài tháng, đang cho con bú thì phát hiện xung quanh vùng ngực phải xuất hiện nhiều u cục nhỏ. Cho rằng mình chỉ bị viêm tuyến sữa thông thường, nghe lời người thân, chị T. tìm đến những bài thuốc dân gian trị tắc tuyến sữa. Chị dùng lá cây, củ trong vườn đắp vào vùng có u hạch. Một thời gian ngắn, u hạch đó tan dần nhưng khi không đắp lá u hạch lại xuất hiện, lần này còn kéo theo hiện tượng đầu vú chị chảy mủ, có mùi hôi. Đi khám ở Viện K trung ương, các bác sĩ kết luận chị bị ung thư vú giai đoạn cuối, khó lòng giữ tính mạng!
Theo BS Lê Thanh Đức - khoa ngoại vú, Bệnh viện K trung ương, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tâm lý chủ quan này là do những biểu hiện ung thư vú ở những giai đoạn đầu thường rất “lành”, người bệnh có thể bị lên hạch, u cục nhưng không đau đớn, không khó chịu và vẫn có thể sinh hoạt bình thường. Nhất là những người đang cho con bú thường nhầm lẫn những u cục xuất hiện ở ngực đó là do viêm, tắc tuyến sữa gây ra.
Bác sĩ Đức cũng khuyến cáo kể cả những cô gái trẻ, chưa lập gia đình, những bà mẹ đang cho con bú hoàn toàn có nguy cơ bị ung thư vú, nếu phát hiện bất kỳ dấu hiệu không bình thường nào ở phần vú, nách như những trường hợp trên tốt nhất nên đi khám sớm.
Cảnh giác với... thầy lang!
Chị N.T.H. (35 tuổi, Hòa Bình) đang trong thời gian cho con bú thì phát hiện có cục nổi ở ngực trái, sờ vào thấy đau. Nghĩ rằng đang cho con bú nên có nhiều chỗ tắc sữa sinh u và đau là bình thường nên chị H. không đến bệnh viện khám mà đến nhà thầy lang ở gần nhà bốc thuốc. Chị H. càng tin mình bị tắc sữa khi thấy thầy lang cũng cho là thế. Uống được 10 thang thuốc, khối u ở ngực của chị xẹp xuống nhưng sờ vào vẫn thấy đau. Được một thời gian ngừng uống thuốc, khối u nổi lên và phát triển mạnh hơn trước. Khi đó, chị H. đến bệnh viện khám và hoảng hốt khi các bác sĩ ở đây kết luận chị bị ung thư vú giai đoạn cuối.
ThS.BS Đỗ Thị Thúy Hằng, khoa y học cổ truyền Bệnh viện K, cho biết trong điều trị ung thư, thuốc đông y thực chất chỉ là biện pháp hỗ trợ về đề kháng, miễn dịch, tăng cường sức khỏe cho bệnh nhân khi bệnh nhân bị suy kiệt về mặt thể chất trong quá trình điều trị bằng hóa chất, xạ trị... Rất nhiều bệnh nhân như chị H. đến viện khi bệnh đã vào giai đoạn muộn khi trước đó tìm đến thầy lang và thuốc đông y. Trên thực tế, để kích khối u, hạch tan mau, nhiều thầy lang dùng biện pháp đốt nóng thuốc đắp. Chính hơi nóng này vô tình kích thích mạch máu đến nuôi khối u lớn nhanh hơn.
Hay như việc dùng thuốc đông y nói chung bằng cách uống hay đắp trực tiếp vào u, hạch chứa tế bào ung thư cũng là việc làm mạo hiểm. Trong thuốc đông y có những thành phần chứa tính “hoạt huyết” làm tăng tốc độ tuần hoàn máu, do vậy khi uống hoặc khi đắp trực tiếp vào hạch, cục u cũng có “tác dụng phụ” là “kích thích” máu đến nuôi tế bào ung thư.
 
Thực tế ở Bệnh viện K, nhiều bệnh nhân ung thư vú trước đó đã được các thầy lang “vườn” đắp thuốc lá có trộn với các thành phần hóa chất thậm chí là axit với mục đích “gỡ” toàn bộ khối u trên cơ thể bệnh nhân. Hậu quả bệnh nhân đến viện trong tình trạng vú bị lở loét, nhiễm trùng, mưng mủ.
Bác sĩ Hằng khuyến cáo việc quá tin vào thuốc nam và thầy lang “vườn” không những mất thời gian, tiền bạc, công sức mà còn làm mất đi cơ hội được chữa trị khỏi bệnh ung thư của chính mình.

Theo Tuổi trẻ

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014

Bệnh lạ: ung thư tuyến... mồ hôi

Những bệnh lý về da thường gây khó chịu về mặt thẩm mỹ cho bệnh nhân, đa phần bệnh sẽ lành nếu được điều trị kịp thời.

Thế nhưng gần đây, nhiều người hoang mang khi nghe nói đến một căn bệnh lạ: ung thư tuyến mồ hôi. Đây là một bệnh hiếm, đến mức còn gây ngạc nhiên cho giới chuyên ngành ung thư, nhưng vẫn phải đề phòng.
Tỷ lệ bệnh ở nam giới cao hơn

Ung thư tuyến mồ hôi được bác sĩ Hoa Kỳ Joseph Leonard Goldstein và các cộng sự mô tả lần đầu vào năm 1982. Các bướu thuộc phần phụ của da như bướu tuyến mồ hôi, nang lông và các tuyến bài tiết chất bã của da thường rất ít xuất hiện. Ung thư tuyến mồ hôi và ung thư phần phụ khác của da càng hiếm gặp và thường là một thách thức trong chẩn đoán. Nhưng trong một nghiên cứu của viện Ung thư quốc gia Mỹ, tỷ lệ ung thư tuyến mồ hôi gia tăng đột ngột tới 170% từ năm 1978 – 2005 mà chưa rõ nguyên nhân.

Nam giới thường mắc bệnh nhiều hơn nữ, suất độ chuẩn 5,1/1.000.000 ca ung thư hàng năm. Người da trắng không phải sắc tộc Tây Ban Nha có suất độ cao hơn (5,7/1.000.000), còn người Mỹ gốc Phi là 3,5/1.000.000, các sắc dân vùng châu Á – Thái Bình Dương: 2,5/1.000.000. Suất độ này gia tăng theo tuổi, tăng 100 lần giữa những người 20 – 29 tuổi so với người trên 80 tuổi.

Tại Việt Nam hiện nay, ung thư tuyến mồ hôi vẫn là bệnh lạ, bệnh hiếm trong mắt phần lớn dân số. Trong khoảng thời gian từ năm 2002 – 2007, tại BV Ung bướu TP.HCM chỉ có bốn trường hợp mắc bệnh. Từ năm 2007 đến nay chưa có số liệu cụ thể của những bệnh nhân mới.


Những yếu tố nguy cơ


Cho đến nay, nguyên nhân dẫn đến ung thư tuyến mồ hôi vẫn còn nằm trong nghiên cứu của y văn thế giới. Tuy nhiên, phơi nhiễm bởi tia cực tím, suy giảm miễn dịch là các yếu tố liên quan đến bệnh. Bức xạ tia cực tím giữ vai trò trong cơ chế sinh bệnh, điều này giải thích tại sao tỷ lệ bệnh lại thấp ở người da sậm màu. Ngoài ra, người ta thấy các loại thuốc điều trị khớp và kháng viêm sử dụng dài ngày cũng có vai trò trong việc gia tăng tỷ lệ loại ung thư này.

Trên lâm sàng, vị trí các tổn thương của bệnh nhiều nhất là ở mặt: 48,6%; các chi: 19%; vùng thân mình: 17,4%; da đầu và cổ chiếm 14%. Ung thư tuyến mồ hôi thường khó được chẩn đoán hay chẩn đoán không đúng nếu chỉ dựa vào lâm sàng, và phải xác định qua mẫu mô sinh thiết từ bướu hay hạch di căn. Cả bốn trường hợp được phát hiện từ năm 2002 đều xuất hiện một cục cứng trong da, nằm ở vị trí cẳng chân, đùi phải hoặc đùi trái và vai cánh tay. Tổn thương trên lâm sàng là một khối bướu kích thước nhỏ dưới da, không đối xứng, giới hạn không rõ ràng, sượng cứng, xâm nhiễm ra da, bề mặt da sẫm màu hoặc có màu hồng. Ban đầu khối bướu có thể nhỏ, không đáng quan tâm, nhưng càng về sau bướu lớn dần, xâm chiếm vào mô, xương, gây đau nhức dữ dội cho bệnh nhân, có khi họ phải dùng thuốc giảm đau liều mạnh nhất để xoá cơn.

Một đặc trưng nữa là loại ung thư này di căn rất nhanh đến hạch bạch huyết, do vậy ngoài tổn thương nguyên phát, các tổn thương hạch vùng nách, hạch cổ là những triệu chứng chính khiến người bệnh tìm đến khám và điều trị. Để chẩn đoán, bác sĩ dùng các phương tiện hình ảnh như siêu âm, X-quang phổi tìm những tổn thương di căn đến gan, phổi hay xương – những vị trí thường bị di căn nhất. Phương pháp chọc hút tế bào từ mô bướu hay hạch, hoặc mổ lấy mẫu sinh thiết cũng mang lại kết quả mô học chắc chắn.

Tái phát cao sau phẫu thuật

Ung thư tuyến mồ hôi thường không nhạy với xạ trị, hoá trị cũng ít có vai trò trong điều trị. Vì vậy, phẫu thuật là phương pháp được xem hiệu quả hơn cả, nhất là khi bệnh còn khu trú tại chỗ, hoặc chưa có di căn. Bệnh nhân cần được phẫu thuật cắt bỏ bướu nguyên phát, kèm theo là nạo vét sạch các hạch di căn. Sẹo để lại sau khi sinh thiết phải được cắt bỏ. Nạo vét hạch phòng ngừa được chỉ định cho những trường hợp bướu tái phát hay kết quả mô học thuộc loại biệt hoá kém.

Diễn tiến của bệnh là phá huỷ cấu trúc tại chỗ dữ dội và khả năng tái phát cao: tỷ lệ tái phát sau cắt rộng tại chỗ từ 47 – 59%. Do vậy, cần phải có một chiến lược theo dõi chặt chẽ và đều đặn sau mổ nhằm phát hiện tái phát hoặc sự xuất hiện một ung thư da khác. Các yếu tố tiên lượng cũng rất khó xác định, một vài yếu tố liên quan như kích thước bướu, loại mô học, tình trạng di căn hạch hoặc di căn xa. Thời gian sống còn năm năm là 99% khi bệnh còn ở giai đoạn khu trú, nhưng chỉ còn 43% khi bệnh đã di căn xa đến các cơ quan khác.


Theo SGTT

Ngừa ung thư theo độ tuổi

Ý thức là chìa khóa phòng ngừa và phát hiện sớm bệnh ung thư. Vậy những biểu hiện nào thường gặp nhất ở mỗi một giai đoạn của cuộc đời?


ảnh minh họa 
Ảnh minh họa
Tuổi 20: Ung thư da hắc tố

Tại sao lại là tuổi này? Ung thư da hắc tố là một trong những “thủ phạm” giết nhiều người trẻ ở Austraila nhất.

Phòng ngừa:

- Tránh tắm nắng bằng bất cứ giá nào. Cần dùng các “hàng rào” chống tia UV như quần áo, mũ chống nắng; ở trong bóng râm đặc biệt là từ 10-15h hằng ngày.

- Khi ra nắng, hãy “che kín” người bằng trang phục và kem chống nắng có chỉ số SPF 30+.

- Đừng nghĩ rằng giường tắm nắng an toàn hơn. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự liên quan giữa việc tắm nắng nhân tạo với ung thư da hắc tố và 1 số loại ung thư da khác.

- Nên kiểm tra da toàn cơ thể mỗi tháng 1 lần, nhờ người thân kiểm tra những vùng da mà bạn không thể nhìn thấy. Những người mà gia đình có tiền sử bị ung thư da hay có quá nhiều nốt ruồi thì cần tới bác sĩ để kiểm tra da thường xuyên.

Cẩn thận:

- Bất kỳ sự bất thường nào trên da, đặc biệt là các chấm hay nốt ruồi đột ngột thay đổi màu sắc, hình dạng, kích thước.

- Những nốt mà gây ngứa hay chảy máu dai dẳng.

Tuổi 30: Ung thư vú
 
Tại sao lại là tuổi này? Tỉ lệ ung thư vú thường gặp khi lớn tuổi nhưng nguy cơ của độ tuổi 30 là 1/250 phụ nữ. Vì thế ý điều quan trọng là ý thức kiểm tra bầu ngực hằng ngày.

Phòng ngừa:

- Tự kiểm tra. Luôn coi trọng cảm giác ở vùng ngực và lưu ý mọi sự lạ thường xảy ra.

- Nếu gia đình có tiền sử ung thư vú thì cần trao đổi với bác sĩ gia đình.

- Duy trì cân nặng hợp lý, đặc biệt nếu vùng bụng có xu hướng tích trữ chất béo.

- Luyện tập có thể tạo ra sự khác biệt. Có những bằng chứng cho thấy việc luyện tập ít nhất 30 phút mỗi ngày sẽ giúp giảm nguy cơ.

- Ăn nhiều rau quả tươi, đặc biệt là các loại rau họ cải như súp lơ xanh.

- Coi chừng lượng cồn. Uống càng nhiều rượu bia thì nguy cơ càng tăng.

- Càng cho con bú nhiều nguy cơ ung thư vú càng giảm.

Cẩn thận:

- Những u cục mới, đặc biệt nếu nó chỉ xuất hiện ở 1 bên ngực.

- Sự thay đổi kích cỡ hay hình dáng bầu ngực.

- Sự thay đổi màu da ở vùng ngực: nhăn nheo hay đỏ lên.

- Sự thay đổi ở đầu núm vú: đỏ, chảy nước, có vẩy, thụt vào…

Tuổi 40: Ung thư ruột

Tại sao lại là tuổi này? Nguy cơ ung thư ruột tăng lên từ độ tuổi 50 nhưng bệnh thường khởi phát khi còn trẻ (dưới 55 tuổi) hoặc những người bị viêm ruột kết, viêm đường ruột nên đi kiểm tra định kỳ từ tuổi 40.

Phòng ngừa:

- Có 1 chế độ ăn ít chất béo và giàu chất xơ với nhiều loại rau quả giàu chất chống ôxy hóa giúp tăng cường sức khỏe đường ruột và giảm nguy cơ ung thư đường ruột. Hạn chế các loại thịt đỏ, chỉ nên ăn từ 2 bữa trở xuống mỗi tuần.

- Không hút thuốc.

- Đi khám bác sĩ, đặc biệt khi bạn ở ngưỡng gần 55.

- Luyện tập đều đặn – ít nhất 30 phút hoạt động mỗi ngày.

Cẩn thận:

- Thấy máu trong chất thải khi đại tiện.

- Thay đổi thói quen đại tiện

- Bụng sưng hay đau.

 

Theo Dân trí/MSN

10 dấu hiệu ung thư tuyến tiền liệt ít ai chú ý

Bằng cách chú ý những dấu hiệu nhỏ tưởng chừng không liên quan, nam giới vẫn có thể phát hiện ung thư tiền liệt tuyến một cách sớm nhất.


 
1. Đi tiểu khó khăn
 
Điều này có hình thức như bạn mắc tiểu nhưng lại không thể đi được gì hoặc đi mà phải dừng lại đột ngột, cũng có thể là đi tiểu thường xuyên hơn. Một dấu hịêu khác là bạn cảm thấy khó dừng lại..Tuyến tiền liệt bao quanh niệu đạo. Vì vậy, thậm chí là một khối u rất nhỏ ở vị trí này có thể gây trở ngại khi đi tiểu hoặc xuất tinh.
 
Tuyến tiền liệt mở rộng trong nhiều người đàn ông có tuổi. Sự mở rộng này có thể gây ra vấn đề tiết niệu tương tự, có thể là viêm tuyến tiền liệt lành tính. Vì vậy, khám bác sĩ là cách thức chẩn đoán chính xác nhất.
2. Đau khi đi tiểu
Hiện tượng này có thể là do một khối u tuyến tiền liệt ép nên niệu đạo. Tuy nhiên, đau khi đi tiểu cũng là một triệu chứng của nhiễm trùng tuyến tiền liệt, được gọi là viêm tuyến tiền liệt hoặc tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH), đó là dạng mở rộng không ung thư của tuyến tiền liệt.

3. Máu trong nước tiểu
Dấu hiệu này ít phổ biến hơn, nhưng là một lý do để đi khám nam khoa ngay. Không cần phải máu nhiều, đôi khi chỉ là một vết máu hoặc màu hồng nhạt. Một số loại bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu có thể gây ra máu trong nước tiểu cũng, nhưng bác sĩ sẽ cần phải thực hiện các xét nghiệm để phân biệt với ung thư tuyến tiền liệt.
4. Khó khăn trong việc duy trì cương cứng
Một khối u tuyến tiền liệt có thể ngăn chặn tăng lưu lượng máu đến dương vật, để giúp cương cứng, hoặc nó có thể ngăn chặn sự cương cứng từ duy trì để xuất tinh. Mở rộng của tuyến tiền liệt và BPH cũng có thể gây ra điều này. Do đó, không hoảng sợ mà hãy kiểm tra y tế cẩn thận.
5. Máu trong tinh dịch
Giống như máu trong nước tiểu, dấu hiệu này không mấy dễ chú ý. Nó không phải là một lượng l máu lớn, giống như chỉ đủ để làm cho tinh dịch hơi hồng hoặc có vệt.
6. Táo bón mãn tính và các vấn đề đường ruột khác
Tuyến tiền liệt nằm bên dưới bàng quang và trước trực tràng. Do đó, một khối u ở vị trí này có thể gây trở ngại cho chức năng tiêu hóa. Tuy nhiên, đó là một tình huống con gà và quả trứng bởi vì táo bón mãn tính có thể góp phần mở rộng tuyến tiền liệt bằng cách gây áp lực trên tuyến này cũng như ngược lại. 
 
Táo bón mãn tính và các vấn đề đường ruột cũng có thể là một chỉ báo sớm của ung thư ruột kết. Quy tắc chung là, nếu bạn đang bị táo bón hoặc các triệu chứng đường ruột khác không biến mất khi bạn thay đổi chế độ ăn uống thì bạn nên đi khám.

7. Thường xuyên đau ở lưng, hông, đùi trên
Dấu hiệu phổ biến của ung thư tuyến tiền liệt là đau ở lưng, xương chậu và hông. Bạn thường không giải thích được đau đớn. Một cách để phân biệt loại đau với đau thần kinh tọa và đau lưng thấp là nó có thể cảm thấy như một cơn đau âm ỉ. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng bất kỳ lưng dưới hoặc đau hông mà không rõ nguyên nhân thì cần thiết phải đi khám.
8. Tiểu đêm
Đây là một trong các triệu chứng ít ai để ý mà khi quý ông được chẩn đoán là mắc ung thư tuyến tiền liệt mới nhớ ra. Nếu bạn thấy mình thức dậy nhiều hơn một lần một đêm để tiểu tiện thì cần đi khám sức khỏe ngay.
9. Tiểu rắc
Một vài quý ông bị rò rỉ nước tiểu không thể tự chủ. Triệu chứng này không mấy phổ biến nhưng cũng đáng lưu y.
10. Bạn đang trên 50 và có yếu tố nguy cơ
Lịch sử bệnh của gia đình, đặc biệt là một người cha có ung thư tuyến tiền liệt hay bạn đang thừa cân, ăn một chế độ ăn giàu chất béo và hút thuốc lá là những yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Một thông tin nhiều người đàn ông không biết đó là nếu phụ nữ trong gia đình của bạn có lịch sử bệnh ung thư vú thì bạn có thể mang gen bị lỗi làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
 
 
 (Theo aFamily/ Caring)

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons