ĐIỀU TRỊ BỆNH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN 0906143408

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2015

Bệnh sán lá gan dễ nhầm với ung thư gan

Trong chẩn đoán lâm sàng, đôi khi bệnh sán lá gan lớn (Fasciola hepatica) nhưng có thể nghĩ là ung thư gan. Mặt khác sán lá gan lớn gây nhiều biến chứng nguy hiểm cho người bệnh, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời.
Sán lá gan đến gan như thế nào?
Sán lá gan lớn ký sinh chủ yếu ở động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu và cả chó, mèo. Ốc là vật chủ ký sinh của ấu trùng sán lá gan lớn. Trứng sán lá gan lớn từ phân người bệnh ra môi trường bên ngoài, xuống nước, qua ốc phát triển thành ấu trùng đuôi. Trong môi trường tự nhiên, trứng sán nở thành ấu trùng lông ký sinh trong ốc rồi phát triển thành ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc, vào nước và bám vào các loại thực vật sống trong nước để trở thành các nang trùng. Khi người ăn, uống phải các nang trùng này sẽ bị bệnh. Sau khi vào dạ dày - tá tràng, các vỏ nang trùng bị phá hủy và giải phóng ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành tá tràng vào ổ bụng rồi di chuyển đến gan, ấu trùng đục thủng bao gan chui vào nhu mô gan để sinh trưởng và phát triển ở đấy, chúng tiết ra các chất độc phá hủy nhu mô gan gây áp-xe gan.
Bệnh sán lá gan dễ nhầm với ung thư gan

Bệnh sán lá gan dễ nhầm với ung thư gan
Hình ảnh gan nhiễmsán lá gan lớn(ảnh trên) và gan bị ung thư (ảnh dưới).
Sau một thời gian từ 2-3 tháng phát triển ở nhu mô gan, sán trưởng thành có thể chui vào đường mật tiếp tục phát triển, đẻ trứng ở đấy và trong suốt thời gian dài (khoảng 10 năm) nếu không được điều trị sẽ dẫn đến ung thư đường mật.
Ngoài ra có một số rất ít trường hợp ấu trùng di chuyển lạc chỗ, chúng không đến gan mà đến một số cơ quan khác (da, cơ, bao khớp, vú, thành dạ dày, đại tràng...) và gây bệnh ở đó. Vì vậy, đã gặp những trường hợp u đại tràng do sán lá gan nhưng chẩn đoán nhầm là ung thư đại tràng.
Triệu chứng của bệnh
Người bệnh thường mệt mỏi, có sốt (có thể sốt cao hoặc sốt nhẹ, chiếm tỷ lệ khoảng 70%), đau nhẹ ở hạ sườn phải (tỷ lệ chiếm 70-80%), đôi khi đau bụng âm ỉ không rõ vị trí, gan sưng to và đau. Một số trường hợp có rối loạn tiêu hóa (chán ăn, phân không thành khuôn, tiêu chảy). Có thể có dị ứng da (20-30 %), biểu hiện các nốt sẩn trên da, gặp chủ yếu ở đùi, mông, lưng, cảm giác ngứa, khó chịu. Một số người bệnh có ho kéo dài, đau tức ngực, vàng da.
Một số trường hợp, bệnh sán lá gan lớn gây áp-xe gan có thể chẩn đoán nhầm với ung thư gan. Vì vậy, để chẩn đoán, nên lưu ý hỏi có sống ở địa phương có nhiều người bị sán lá gan hay không?
Cần xét nghiệm bạch cầu ái toan, siêu âm gan, có thể chọc hút thăm dò và xét nghiệm tế bào, ký sinh trùng, vi khuẩn, chụp cắt lớp vi tính (CT), xét nghiệm bằng phản ứng ELISA cho kết quả chính xác nhất bởi vì, khi sán xâm nhập vào nhu mô gan chúng tiết ra nhiều kháng nguyên nhất, 2 tuần sau bắt đầu xuất hiện kháng thể (IgG và IgE), nếu thực hiện phản ứng ELISA sẽ dương tính. Cần lưu ý là 6 tháng sau khi khỏi bệnh, ELISA vẫn còn dương tính và 12 tháng sau mới hết hẳn.
Nguyên tắc điều trị
Khi áp-xe gan không điều trị kịp thời có thể áp-xe bị vỡ vào màng phổi, vỡ vào màng bụng, thành bụng gây viêm phúc mạc, nhiễm độc rất nguy hiểm cho tính mạng.
Khi xác định là bệnh do sán lá gan cần điều trị càng sớm càng tốt tránh để xảy ra các biến chứng nguy hiểm. Hiện nay đã có thuốc điều trị đặc hiệu với loại bệnh này, tuy vậy, cần có chỉ định và theo dõi của bác sĩ chuyên khoa, người bệnh không tự mua thuốc để điều trị. Trong trường hợp điều trị nội khoa tiến triển chậm có thể kết hợp điều trị ngoại khoa (chọc hút dịch, mủ áp- xe). Công việc này sẽ phải tiến hành ở bệnh viện có đủ điều kiện.
Lời khuyên của thầy thuốc

Để tránh mắc bệnh, không ăn rau, canh hoặc ốc nấu chưa chín. Không ăn rau sống, không uống nước chưa đun sôi. Cần rửa tay sạch bằng xà phòng trước khi ăn, đặc biệt là sau khi đi vệ sinh.

Thêm hy vọng cho bệnh nhân ung thư bạch cầu

Đây là một trong những căn bệnh thực sự chưa bao giờ bị đánh bại. Trong 90% các trường hợp thì chưa bao giờ chữa được bệnh ung thư bạch cầu dạng tủy mạn tính. Và nguyên nhân là các tế bào ung thư gốc vẫn tồn tại trong cơ thể. Với nguy cơ tái phát rất lớn, người bệnh phải dùng thuốc liên tục với các tác dụng phụ như gặp vấn đề về tiêu hóa hay phù mặt...
Thêm hy vọng cho bệnh nhân ung thư bạch cầu
Tuy nhiên, phân tử pioglitazone đã được sử dụng trong điều trị bệnh đái tháo đường khi được kết hợp với các cách điều trị ung thư bạch cầu thông thường đã cho phép loại bỏ căn bệnh ung thư này ở người bệnh trong vòng 5 năm điều trị. Kết quả này vừa được các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu các bệnh mới và các liệu pháp sáng tạo Fontenay-aux-Roses công bố.
Phương pháp điều trị này cũng đã được tiến hành áp dụng để nghiên cứu các dạng ung thư bạch cầu khác và các bệnh ung thư khác.

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2015

Chữa khỏi ung thư đường tiêu hóa, không cần cắt bỏ

Đây được coi là một trong những tiến bộ quan trọng trong việc khống chế căn bệnh đang có tỉ lệ khá cao trong cộng đồng.
Tai Hội thảo Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý tiêu hóa do BV Bạch Mai phối hợp với ĐH Nagoya Nhật Bản tổ chức, TS. Vũ Trường Khanh, Phó trưởng khoa Tiêu hóa, BV Bạch Mai cho biết, với những bệnh nhân được phát hiện ung thư đường tiêu hóa sớm, khối u chưa xâm lấn sâu thì hoàn toàn có thể khống chế và loại bỏ được, quan trọng nhất là vẫn có thể bảo toàn đường tiêu hóa cho người bệnh. Chẳng hạn với bệnh nhân ung thư dạ dày, thay vì phương pháp phẫu thuật cắt bỏ dạ dày như trước đây, thì nay chỉ cần loại bỏ khối u, cắt hớt niêm mạc dạ dày qua nội soi vẫn có thể trị tận gốc căn bệnh này.
Kỹ thuật chẩn đoán và cắt dưới niêm mạc điều trị ung thư đường tiêu hóa sớm này đã được thực hiện ở BV Bạch Mai khoảng một năm trở lại đây, giúp cứu sống khoảng 20 bệnh nhân bị ung thư đường tiêu hóa sớm. Đây là kỹ thuật đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh như giảm đau đớn, thời gian điều trị nhanh và ít gặp biến chứng…
Bệnh nhân điều trị tại khoa Tiêu hóa, BV Bạch Mai.
Bệnh nhân điều trị tại khoa Tiêu hóa, BV Bạch Mai
GS.TS Ngô Quý Châu, PGĐ BV Bạch Mai cho biết, với sự ra đời của Trung tâm Nội soi tiêu hóa Việt Nam - Nhật Bản (tháng 7/2014) đã giúp việc chẩn đoán và điều trị của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt như: Chẩn đoán sớm ung thư đường tiêu hóa, cắt tách dưới niêm mạc qua nội soi điều trị tổn thương tiền ung thư, ung thư sớm mà không phải cắt bỏ thực quản, dạ dày và đại tràng, thăm dò được toàn bộ ruột non và điều trị các bệnh ở ruột non…
Cũng tại hội thảo này, các chuyên gia tiêu hóa của Việt Nam và Nhật Bản đã cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm quý báu trong việc chẩn đoán và điều trị các bệnh lý tiêu hóa, trong đó có: Chẩn đoán và cắt dưới niêm mạc điều trị ung thư đường tiêu hóa sớm; Điều tri ung thư biểu mô tế bào gan khối ở vị trí khó bằng đốt sóng cao tần có bơm dịch màng bụng và màng phổi; Nội soi bóng kép tại khoa Tiêu hóa, BV Bạch Mai; Chẩn đoán bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu, Nội soi mật tụy ngược dòng tại Nagoya…

Phát hiện hóa chất gây ung thư trong chất liệu làm ghế ngồi hạt xốp

Công ty Bean Bags R Us (Mỹ) vừa hoàn thành một dự án nghiên cứu cho thấy ghế ngồi hạt xốp mang đến những rủi ro sức khỏe đáng kể cho trẻ em và người lớn. Các nghiên cứu cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa những người dành nhiều thời gian dùng ghế ngồi hạt xốp với tỷ lệ bệnh ung thư và dị tật bẩm sinh tăng lên.

Bởi vì các mối đe dọa này, các quan chức ở California (Mỹ) đang yêu cầu tất cả các nhà sản xuất và nhà phân phối ghế ngồi hạt xốp dán nhãn cảnh báo nguy hiểm cho tất cả các sản phẩm được bán trên thị trường.
Đầu tiên, các sản phẩm ghế ngồi hạt xốp được sản xuất từ vải vinyl. Một số nghiên cứu y tế tiến hành trong vòng một thập kỷ qua đã xác định rằng khi vinyl được sử dụng như một loại vải, nó có thể gây ra một số nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng.
Vấn đề đầu tiên với vinyl là nó sinh ra khí vinyl chloride, một chất khí không màu mà từ lâu đã gắn liền với rất nhiều loại bệnh nan y. Khi người ta hít vào vinyl chloride, họ có thể gặp một hoặc nhiều các triệu chứng sau đây: Đau đầu; Chóng mặt; Buồn ngủ; Kích ứng mắt; Kích thích đường hô hấp.
Khi tiếp xúc với lượng vinyl chloride tăng theo thời gian, nguy cơ phát triển bệnh ung thư cũng tăng lên. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) đã phân loại hợp chất này như là một chất gây ung thư nhóm A.
Vải vinyl và hạt xốp trong ghế ngồi hạt xốp rẻ tiền gây hại lớn tới sức khỏe người dùngVải vinyl và hạt xốp trong ghế ngồi hạt xốp rẻ tiền gây hại lớn tới sức khỏe người dùng
Các ảnh hưởng của vinyl chloride tới sức khỏe bao gồm: làm tê liệt hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi; suy thận; bệnh gan; bệnh về xương; ảnh hưởng hệ thống sinh sản nam giới; gia tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh; nguy cơ sẩy thai cao hơn, ảnh hưởng tới não, phổi. 
Một vấn đề khác với vải vinyl là nó được xử lý bằng hóa chất để tối đa hóa tính uốn dẻo và độ đàn hồi của nó. Một trong các hóa chất dùng để xử lý vải vinyl là diisononyl phthalate (DINP).
DINP ngăn vải vinyl nứt bằng cách tăng độ dẻo của nó, nhưng các nhà nghiên cứu y khoa đã xác định rằng việc tiếp xúc quá nhiều với hợp chất này có thể gây ra các bệnh ung thư, bao gồm ung thư gan, ung thư xương, ung thư máu, ung thư thận, ung thư tuyến tụy và ung thư tử cung.
Văn phòng đánh giá hiểm họa sức khỏe môi trường (OEHHA) ở California (Mỹ) đã kết luận rằng nếu bất kì sản phẩm nào có sử dụng chất DINP đều phải dán nhãn: "Chú ý: Sản phẩm này có chứa hóa chất có thể để gây ung thư và dị tật bẩm sinh hoặc gây tổn hại sinh sản được xác định bởi tiểu bang Calofornia".
Ngoài các nguy cơ hại sức khỏe bởi vải vinyl, người tiêu dùng còn phải tránh sử dụng ghế ngồi có nhân làm bằng bọt xốp. Đáng nhẽ ghế ngồi bọt xốp phải được sản xuất từ hạt EPS nguyên sinh nhưng nhiều nhà sản xuất đã thay bằng các loại hạt rẻ tiền hơn để giảm chi phí sản xuất.
Các loại hạt rẻ tiền này vô cùng hại cho sức khỏe con người, không giống như hạt EPS nguyên sinh. Các loại hạt bọt xốp rẻ tiền có chứa chất Acetone có thể độc hại khi hít vào; Dimetylformamide làm hỏng các cơ quan nội tạng; Methyl benzen có thể gây hại cho hệ thần kinh trung ương; Vinylidene clorua là một chất gây kích thích đường hô hấp và còn liên quan đến ung thư.

4 loại bệnh để lâu sẽ dẫn đến ung thư




Có 4 loại bệnh tưởng không nguy hiểm nhưng lại có khả năng dẫn đến ung thư, gồm:
Bệnh trĩ
Bệnh trĩ là sự co giãn quá mức ở các đám rối tĩnh mạch xung quanh khu vực hậu môn khiến máu ứ đọng làm cho tĩnh mạch bị giãn và phình ra một cách bất thường Việt Nam hiện nay có khoảng 30 - 50% dân số bị mắc bệnh trĩ. Trong số đó, khoảng 10 - 30% cần điều trị bệnh trĩ, 20% cần phải mổ để giải quyết các hậu quả do bệnh trĩ gây ra.
Nhiều người nghĩ, trĩ là căn bệnh không nguy hiểm, chỉ gây đau đớn và bất tiện trong sinh hoạt của người bệnh. Thực tế thì hoàn toàn không phải như vậy. Trĩ không chỉ gây đau đớn và bất tiện trong sinh hoạt mà nó cũng có thể gây nên những biến chứng nặng nề như ung thư.
Theo TS Nguyễn Mạnh Nhâm - Chủ tịch Hội Hậu môn, trực tràng, Việt Nam, bệnh trĩ thường gây đau đớn cho người bệnh khi đi đại tiện. Bệnh trĩ cũng gây chảy máu mỗi khi đi đại tiện. Nếu hiện tượng chảy máu này kéo dài sẽ gây nên chứng thiếu máu ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh.Khi búi trĩ sa ra ngoài hậu môn, nó có thể gây ngứa, trầy xước tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào hậu môn gây viêm nhiễm hậu môn. Khi bệnh trĩ kéo dài kết hợp với những viêm nhiễm vùng hậu môn có thể kích thích các tế bào ung thư phát triển ở vùng bị tổn thương.
TS Mạnh Quân khuyến cáo, với những người bị bệnh trĩ kéo dài nếu thấy kèm theo hiện tượng chảy máu thâm đen và có mùi hôi thì phải nghĩ đến khả năng bệnh đã chuyển sang ung thư trực tràng. Bởi đó là dấu hiệu điển hình của người bị mắc bệnh ung thư trực tràng.
Bệnh sùi mào gà
Bệnh sùi mào gà có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung và ung thư dương vật
Sùi mào gà là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục. Biểu hiện là những nụ sùi nhỏ giống như mào gà, hoa lơ ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, miệng, họng hoặc dương vật, đôi khi xung quanh lỗ hậu môn. Đó là những u lành tính của tế bào do virus HPV, lây truyền chủ yếu qua giao hợp. Thời gian ủ bệnh từ vài tuần đến vài tháng.
Sùi mào gà nguy hiểm vì làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung - một loại ung thư gây ra bởi virus HPV (rất nhiều nghiên cứu cho thấy tình trạng nhiễm HPV trong 99,8% trường hợp ung thư cổ tử cung). Cần phải nhấn mạnh rằng nhiễm HPV xảy ra trước khi xuất hiện các tổn thương loạn sản và sau đó là các tổn thương ung thư cổ tử cung.
Nguy cơ của sùi mào gà là ung thư cổ tử cung nên những phụ nữ có sùi mào gà phải làm xét nghiệm soi tế bào âm đạo hằng năm để phát hiện sớm những thay đổi có thể dẫn đến bệnh này. Phụ nữ đã có quan hệ tình dục cần làm xét nghiệm này hai năm một lần. Đây là cách duy nhất để loại trừ sớm ung thư cổ tử cung ở người có sùi mào gà.
Ở nam giới, bệnh cũng có thể gây ung thư dương vật nếu không được điều trị.
Viêm gan B
Theo các chuyên gia, bệnh viêm gan B là nguyên nhân chính gây ra ung thư gan. Trong số những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư gan thì có đến khoảng 85% người bệnh có tiền sử viêm gan B chuyển sang ung thư gan. Bệnh nhân khi mắc bệnh ung thư gan thì việc điều trị để hồi phục lại các tế bào gan đã bị tổn thương là hoàn toàn không thể, việc điều trị chỉ mang tính chất khống chế diễn biến xấu của bệnh và hạn chế những biến chứng mà bệnh có thể gây ra cho người bệnh.
Viêm gan siêu vi B và C có thể coi là một trong những nguy cơ chính dẫn đến bệnh ung thư gan. Hơn 70% số người mắc bệnh ung thư gan có tiền sử nhiễm virus viêm gan B và C. Biến chứng từ viêm gan sang ung thư gan thường rất chậm, khoảng 20 năm, khiến nhiều người hoàn toàn không chú ý. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh viêm gan B mãn tính thì đây chính là những người có nguy cơ dẫn đến ung thư gan cao hơn cả. Nguyên nhân là do người bệnh mắc bệnh viêm gan B nhưng không biết mình mắc bệnh hoặc nhiều bệnh nhân chủ quan không tiến hành điều trị hoặc điều trị bệnh không đúng phương pháp, không hiệu quả khiến bệnh nhanh chóng dẫn đến biến chứng.
Như đã nói ở trên thì bệnh viêm gan B chính là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư gan, do đó, mỗi người bệnh cần được tiêm phòng vaccine viêm gan B, nếu như cơ thể có chứa virus viêm gan B và virus đang hoạt động thì người bệnh nên tiến hành điều trị bệnh triệt để. Nếu như người bệnh khi mắc bệnh viêm gan B thì người bệnh cần được tiến hành điều trị bệnh sớm, điều trị viêm gan B một cách triệt để nhất theo đúng y lệnh điều trị của các bác sĩ chuyên khoa để việc điều trị đạt hiệu quả nhất.
Bên cạnh việc phòng ngừa những bệnh gan có thể xảy ra cho người bệnh thì người bệnh cũng nên có chế độ ăn uống lành mạnh, việc ăn uống không cân đối hoặc không hợp vệ sinh cũng có thể là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư gan. Kiêng rượu và thuốc lá cũng là cách người bệnh có thể phòng tránh được bệnh và làm chậm quá trình mắc bệnh ung thư gan.
Sẹo lâu ngày không khỏi
Theo các chuyên gia về da liễu, những tổn thương về da bỏng, sẹo và loét trong thời gian dài mà lại lâu lành có nguy cơ cao trong việc phát triển thành ung thư da. Chúng sẽ phát triển thành ung thư tế bào biểu bì có vảy do viêm mãn tính hoặc thay đổi thành tế bào ác tính. Loại ung thư này thường hay dẫn đến di căn hạch và có thể gây tử vong cao nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp.
Có 3 loại ung thư da tế bào vảy:
- Ung thư da tế bào vảy có thể phát sinh từ actinic keratoses (dày sừng do nắng) trông như những miếng vảy dày dính trên da. Ung thư da dạng này mềm và có thể cử động tự do, nằm trên phần da đầu hói, trán, tai và mu bàn tay.
- Loại thứ hai của ung thư da tế bào vảy xuất hiện ở các vùng da bị tổn thương do ánh nắng mặt trời. Chúng là những khối u rắn, cử động được, mọc u lên, nhìn rõ mép và ít có vảy bề mặt. Những khối u tế bào vảy dạng này ít khi di căn nhưng có thể xâm lấn cục bộ.
- Loại thứ ba của ung thư da tế bào vảy phát sinh từ vùng da bình thường hoặc môi. Chúng rất dễ xâm lấn và có thể di căn đến các hạch bạch huyết trong khu vực.
Ung thư da tế bào vảy thường xuất hiện trên nền tổn thương ung thư và vết sẹo lâu ngày. Ngoài ra còn có thể xuất hiện ở những vùng da bị tổn thương bởi tia UV như vùng da đầu không có tóc, vùng mặt, cổ, cánh tay, mu bàn tay hay mu bàn chân. Khối u thường sùi, đau, di căn hạch khu vực hoặc di căn theo đường máu vào phổi, xương, gan và não.
Sinh thiết tế bào tổn thương là phương pháp chẩn đoán xác định ung thư da tế bào vảy. Nếu kết quả sinh thiết lần đầu dương tính có thể sinh thiết lại nhiều mảnh tế bào, sâu và to hơn. Thực hiện sinh thiết có thể chẩn đoán mô bệnh học, phân loại u và xếp độ mô học ung thư. Tuy nhiên với những hạch to cần cân nhắc có nên chọc hút tế bào hay không vì có thể làm vỡ hạch gây lây lan tế bào ung thư ra các vùng xung quanh.


Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Tin vui cho bệnh nhân ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng vẫn được coi là đứng thứ 5 trong những nguyên nhân phổ biến nhất của các ca tử vong ung thư ở phụ nữ tại Mỹ (theo Hiệp hội Ung thư Mỹ). Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đã mang lại hy vọng cho những phụ nữ được chẩn đoán mắc căn bệnh này; tỷ lệ sống 10 năm sau khi phát hiện ung thư buồng trứng là cao hơn so với suy nghĩ trước đây.
Ung thư buồng trứng không đáng sợ như trước
“Nhận thức rằng gần như tất cả các phụ nữ bị chết vì bệnh này như trước đây là không đúng”. Tác giả nghiên cứu - TS. Rosemary Cress thuộc Sở Khoa học y tế công cộng tại Đại học California - Davis (UC Davis) cho biết. Trong nghiên cứu 11.541 phụ nữ mắc ung thư buồng trứng, có 3.582 người (31%) sống sót trong hơn 10 năm sau chẩn đoán.
Tin vui cho bệnh nhân ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng không phải là “án tử hình”.
Bà cho biết thêm: “Thông tin này sẽ rất hữu ích cho các bác sĩ chẩn đoán ban đầu và bác sĩ sản/phụ khoa - những người chăm sóc bệnh nhân sau khi họ được chữa trị từ các chuyên gia”.
Khoảng 21.290 phụ nữ ở Mỹ sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng trong năm nay và hơn 14.000 có thể sẽ chết vì căn bệnh này. Các bệnh ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ lớn tuổi, với hơn một nửa số trường hợp được chẩn đoán ở phụ nữ tuổi từ 63 trở lên.
Theo Chương trình giám sát, dịch tễ học và kết quả cuối (SEER) của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ cho biết: tỷ lệ sống 5 năm cho phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng là 45,6% và hơn 30% sống 10 năm.
Trong nghiên cứu của họ, Cress và đồng nghiệp đặt ra để ước tính tỷ lệ sống 10 năm cho phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ California Cancer Registry (dữ liệu đăng ký ung thư California) và xác định 11.541 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng biểu mô - hình thức phổ biến nhất của bệnh, chiếm 9 trong 10 trường hợp - giữa năm 1994 và 2001.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng: có 3.582 người phụ nữ, (chiếm 31%) đã sống sót trong hơn 10 năm sau chẩn đoán. Trong số những người sống sót có 954 bệnh nhân đã từng bị coi là có nguy cơ cao tử vong vì ung thư, bởi vì họ đã phát bệnh ung thư từ một năm trở lên tại thời điểm chẩn đoán, đã di căn hoặc được chẩn đoán bị ung thư giai đoạn cuối.
“Chúng tôi thấy một chút ngạc nhiên khi một số lượng lớn bệnh nhân mắc bệnh này đã sống sót lâu dài trong khi trước đó thường được coi là ung thư gây tử vong cao”. TS. Cress cho biết.
Mặc dù nghiên cứu này là không thể xác định chính xác lý do tại sao rất nhiều phụ nữ bị ung thư buồng trứng có thể sống sót, đồng tác giả nghiên cứu này, Gary Leiserowitz thuộc khoa Sản và Phụ khoa tại Đại học UC Davis nói rằng, nó có thể do đột biến gen BRCA1 và BRCA2 trong một số bệnh nhân bị bệnh; bệnh nhân có những đột biến này thường đáp ứng với hóa trị liệu tốt hơn so với những người không có.
Ngoài ra, Leiserowitz nói rằng trong số các bệnh nhân ung thư buồng trứng sống sót, sự khác biệt sinh học có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị cá nhân và một số bệnh nhân có thể được điều trị hiệu quả hơn so với những người khác, làm tăng khả năng sống sót.
Ông cho biết thêm: “Đây là thông tin quan trọng giúp tư vấn cho bệnh nhân. Nhiều bệnh nhân và bác sĩ biết rằng ung thư buồng trứng là một bệnh ung thư nguy hiểm, nhưng họ không nhận ra rằng có sự biến đổi sinh học đáng kể giữa các bệnh nhân. Nó không phải là một tiên lượng thống nhất gây tử vong”.
Cần thêm những bằng chứng
Trong khi cần thiết phải nghiên cứu thêm để xác định nguyên nhân chính xác lý do tại sao một số phụ nữ có buồng trứng ung thư tồn tại lâu dài, những phát hiện này hiện cung cấp hy vọng cho hàng nghìn phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh này mỗi năm.
Jacqueline Price (74 tuổi) - một người sống sót sau chẩn đoán ung thư buồng trứng và một bệnh nhân của Leiserowitz được chẩn đoán ở giai đoạn 3 của bệnh ở tuổi 60. TS. Cress tin rằng kết quả nghiên cứu mới nhất này sẽ giúp phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng hiểu rằng nó không phải là một “bản án tử hình tự động” và thúc đẩy sự lạc quan - một cảm xúc mà nghiên cứu trước đây đã chỉ ra có thể đem lại lợi ích sống còn của bệnh ung thư.
Cress nói với MNT rằng, nghiên cứu nên được thực hiện để đạt được một sự hiểu biết tốt hơn về sự tồn tại lâu dài cho bệnh nhân ung thư buồng trứng, nhưng cô cũng lưu ý rằng các nhà nghiên cứu không có nguồn lực để theo dõi bệnh nhân trong thời gian dài.

TS. Cress cho biết thêm: “Sức mạnh nghiên cứu của chúng tôi là sự sẵn có của dữ liệu đăng ký ung thư dựa trên dân số bệnh nhân được chẩn đoán hơn 10 năm trước đây. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong tương lai nên điều tra các cơ chế cơ bản đằng sau sự tồn tại dài hạn của ung thư buồng trứng. Các nghiên cứu trong tương lai có thể bổ sung dữ liệu đăng ký ung thư với thông tin điều trị và chi tiết hơn với dữ liệu về gen có nguồn gốc từ phân tích của các khối u buồng trứng để xác định sự đóng góp của các yếu tố này để tồn tại”.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons